Hai ngọn đuốc sáng
Đức Kitô, ánh sáng vĩnh cửu đã nhập thể trong trần gian để mặc
khải về Chân Lý Cứu Độ. Ngài đến và kêu mời những ai theo Ngài hãy trở nên ánh
sáng cho thế gian, làm chứng cho Tin Mừng Cứu độ bằng lời nói, bằng thái độ và
bằng cuộc sống của chính mình. Người tín hữu sẽ trở thành ánh sáng, sẽ biểu
hiện một cuộc sống gương mẫu “để mọi người ngợi khen cha của anh em, đấng ngự
trên trời” (Mt 5,16) qua việc phục vụ tận tình như dấu chỉ Nước Trời đang hình
thành và với thái độ chấp nhận hi sinh dấn thân cho Chân lý
Hai
vị thánh Phêrô Dũng và Phêrô Thuần khi chấp nhận bản án thiêu sinh hơn là bỏ đạo,
đã dùng chính thân thể mình làm ngọn đuốc sáng: Chấp nhận hủy diệât mạng sống hầu
được sống trường tồn. Để rồi ngọn lửa rực sáng trong khoảng khắc ấy, mọi người
sẽ thấy bừng lên ánh sáng Thần Linh của Thượng Đế, Đấng các vị làm chứng cho đến
hơi thở cuối cùng
Khó khăn thử thách.
Ông Phêrô Đinh Văn Dũng
(con ông Phê rô Mẫn và bà Maria An) và ông Phêrô Đinh Văn Thuần đều đã ngoài 60
tuổi, là anh em con chú con bác, người họ Đông Phú thuộc giáo xứ Trung Đồng, Kẻ
Mèn, tỉnh Thái Bình trong giáo phận Trung Đàng Ngoài. Hai ông làm nghề đánh cá,
một nghề như thánh Phê rô, bổn mạng hai ông đã từng làm. Riêng ông Phêrô thuần
còn được chọn làm Lý trưởng nhờ tấm lòng cương trực và khả năng của mình. Là
những giáo hữu bình dân chất phác và nhiệt thành, sau khi lập gia đình, hai ông
đã tận tâm giáo dục con cái sống đạo cách sốt sắng theo tinh thần Phúc Âm.
Tháng 08-1861 với chiếu
chỉ phân sáp của Vua Tự Đức, việc bách hại đạo gia tăng cách khủng khiếp nhất
là trong giáo phận Trung. Các quan thi hành triệt để lệnh Vua, không những cho
quân lính truy lùng các vị thừa sai, giám mục, linh mục, thày giảng, mà còn
cưỡng ép mọi giáo hữu bất kể nam phụ lão ấu đều phải chối đạo và bước qua Thánh
Giá. Đất đai, vườn ruộng, nhà cửa, sức vật. của giáo hữu sau khi bị phân sáp
đều bị tịch thu, phá hủy. Hơn nữa, giáo hữu còn bị khắc trên má hai chữ “Tả
Đạo” để khỏi lẩn trốn. Quả thực, Giáo Hội Việt Nam đang phải chìm đắm trong
những thử thách lớn lao.
Đầu năm 1862, thảm họa đã
đổ xuống trên làng Đông Phú. Trong dịp này, hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần
đã bị bắt và bị giải về phủ huyện, rồi bị tống giam vào ngục Ngọc Chí. Tại đây
hai ông chịu nhiều cực hình, cổ mang gông, chân chịu xiềng xích, và nhiều lần
quân lính đưa hai ông đến trình diện quan lớn, rồi bị cưỡng ép chà đạp Thánh
Giá. Nhưng các ông vẫn nhất mực từ chối lời quan, và thẳng thắn tuyên xưng niềm
tin của mình vào Đức Kitô.
Hai mẫu gương sống động.
Các quan đã phải dùng đến phương sách tình cảm để mong khuất
phục hai ông. Quan cho quân lính dẫn hai ông về thăm gia đình, gặp vợ con.
Trước cảnh gông cùm xiềng xích của người chồng, người cha, cả hai gia đình đều
nức nở khóc lóc buồn thương. Nhưng điều quan quân không ngờ được: Hai ông bình
tĩnh an ủi và khích lệ vợ con hãy sẵn sàng chấp nhận việc dâng hiến của mình.
Ông Phêrô Dũng nói: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Đức Kitô”.
Sau đó hai vị anh hùng bình thản trở về nhà tù sống chung với
các chứng nhân khác.
Tháng 04-1862, các quan đầy hai ông ra làng Lương Mỹ, thuộc
huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, và giam ở đó hai tháng. Trong hoàn cảnh này,
ông Phêrô Thuần đã một lần thối chí và nghe lời quan đạp lên Thánh Giá. Thế
nhưng sau khi gặp các bạn hữu, ông tìm được can đảm, tiếp tục tuyên xưng niềm
tin cho đến chết, bất chấp mọi đòn vọt tra tấn.
Nhận thấy việc kéo dài thời gian giam giữ hai ông Phêrô Dũng và
Phêrô Thuần cũng vô ích, các quan liền kết án thiêu sinh hai ông. Ngày
06-06-1862, quan cho nhốt hai chiến sỹ đức tin vào một chiếc cũi tre chật hẹp,
rồi chất củi thiêu sống hai ông. Trong ngọn lửa phừng phực nóng bỏng, hai chứng
nhân của Chúa Kitô chắp tay cầu nguyện, tạ ơn Chúa trong tâm tình hiến dâng
mạng sống mình để nói lên niềm tin kiên vững vào Đấng Cứu Chuộc. Thi thể cháy
đen của hai vị tử đạo được chôn cất ngay tại chỗ. Về sau, giáo dân đem an táng
tại sân nhà thờ Đông Phú, quê hương của cac ngài.
Cùng với 23 vị tử đạo khác tại Việt Nam, hai ông Phêrô Đinh Văn
Dũng và Phêrô Đinh Văn Thuần đã được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân
Phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
ngài lên bậc Hiển Thánh