Từ ẩn sĩ đến tử đạo
Khởi đầu là vị ẩn tu,
kết thúc là vị tử đạo. Hai hình ảnh như có vẻ khác biệt nhau. Nhưng đối với
thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, điều quan trọng đâu có phải là hình ảnh, là lối sống,
mà chính là NIỀM TIN: Thiên Chúa là tất cả. Lối sống có thể thay đổi nhưng niềm
tin mới là nền tảng chính yếu. Chính niềm tin đó đã dẫn
dắt cuộc đời Phaolô Tịnh, từ một vị ẩn sĩ trở thành một vị linh mục nhiệt thành truyền giáo, một g
iáo sư tận tụy và sau cùng đến phúc tử đạo vinh quang.
dắt cuộc đời Phaolô Tịnh, từ một vị ẩn sĩ trở thành một vị linh mục nhiệt thành truyền giáo, một g
iáo sư tận tụy và sau cùng đến phúc tử đạo vinh quang.
Rừng vắng và sứ mạng
Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh
năm 1793 tại xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hoá, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, là con
thứ ba trong gia đình công giáo. Năm 12 tuổi cậu vào ở với cha Duệ xứ Bạch Bát,
sau ba năm cậu được cha gởi đi học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong
chủng viện cậu là một chủng sinh gương mẫu. Trí khôn bình thường nhưng cậu hơn
hẳn anh em về sự chăm chỉ, về tinh thần đạo đức, hãm mình, cậu ăn chay các ngày
thứ sáu, đánh tội và nằm đất. Khuynh hướng sống khổ hạnh là bước đầu dẫn đến ý
định ẩn tu của thày Tịnh.
Có thể nói Lê Bảo Tịnh
là một con người mến yêu Thiên Chúa triệt để. Thày đã cương quyết hiến dâng
cuộc đời cho Chúa. Thày đã chọn Chúa và thể hiện điều ấy cách trọn vẹn.
Chính vì thế thày tích trữ cơm khô, âm thầm rời bỏ chủng viện vào sâu trong
rừng vắng để có dịp cầu nguyện và kết hiệp mật thiết đối với Thiên Chúa bằng
đời sống khắc khổ trong cô tịch.
Thế nhưng đâu phải ai
cũng có quyền sống đạo đức theo ý riêng. Thiên Chúa mời gọi con người
cộng tác vào công trình cứu chuộc của ngài, thì chính ngài xếp đặt công
việc cho họ. Chính vì vậy Đức Cha Longer Gia đã chỉ thị cho các cha trong giáo
phận: “Nếu thày Tịnh đến xưng tội, không linh mục nào được quyền giải tội, phải
bảo thày đến gặp Đức Cha ngay”.
Và vị ẩn sĩ đạo đức ấy
đã tìm ra ý Chúa qua vị Giám Mục. Một năm trời quen với rừng sâu, giờ đây thày
phải từ giã để đón nhận những hy sinh mới, những công tác mà Giáo Hội đang cần
đến thày.
Vị tông đồ đất lào
Để chuẩn bị cho những
công tác lớn lao hơn, Đức Cha cho thày Tịnh về tiếp tục học thần học, lãnh các
chức nhỏ, đồng thời tiếp tục dạy học. Đức Cha Havard Du, kế vị Đức Cha Gia, cử
thày sang Macao để nhận những khoản trợ cấp cho giáo phận. Hai chuyến đi trong
hai năm, đồng thời cũng là hai lần thoát chết khỏi tay cướp biển và giông tố.
Năm 1837, Đức Cha đề ra
chương trình truyền giáo tại Lào, thày Tịnh đã hăng hái lên đường. Sau một năm
hoạt động thấy việc tiến triển tốt đẹp, thày trở về giáo phận xin Đức Cha phái
thêm người đi truyền giáo. Thế nhưng tình hình trong nước đã thay đổi. Thi hành
lệnh vua quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lúc đó ra lệnh cấm đạo gắt gao. Cha
Mai Năm, ông Trùm Đích, ông Lý Mỹ bị bắt và tử đạo, chủng viện Vĩnh Trị phải
đóng cửa, Đức Cha cha Du phải ẩn lánh và qua đời ngày 05-07-1838. Đức Cao chịu
tử đạo không kịp nhận nhiệm vụ. Vì vậy đoàn truyền giáo ở Lào phải dừng lại và
trở về nước, chuẩn bị nhận công tác mới.
Vào tù lần thứ nhất và lưu đày.
Đức Cha Retordd Liêu,
người kế vị Đức Cha Du, cử thày Tịnh đi dạy giáo lý tân tòng tại làng Thạch Tổ,
xứ Bích Trì, tỉnh Hà Nam. Cuối năm 1841, Lý trưởng làng Thạch Tổ đã rình bắt
được thày Tịnh. Giáo hữu đem tiền nộp quan mong chuộc được thày, nhưng thày tỏ
ra khí khái nói với quan: “Nếu chỉ có tiền mà tha thì tôi không muốn”.
Thế là thày Tịnh bị
giải về Tuần phủ Hà Nam, rồi lên Hà Nội. Ở đâu con người mảnh khảnh ấy, với y
phục thô sơ, luôn đi chân đất, cổ đeo gông nhưng tâm hồn chính trực và cương
quyết. Các vị quan hùng hổ nhưng không thể nào khuất phục nổi. Họ chỉ còn cách
là đệ án về kinh xin trảm quyết. Nhưng rất may, khi vua Thiệu Trị lên ngôi, bầu
khí ác cảm với đạo đã giảm đi. Sáu lần quan đệ án vào kinh, cả sáu lần không
được chấp thuận, để đến lần thứ bảy chuyển thành án lưu đày chung thân ở
Phú Yên (Bình Định).
Trên đường lưu đày,
người có thân hình mảnh mai nhưng tâm hồn cương nghị ấy, luôn chứng tỏ lòng
trung thành quả cảm với chân lý đức tin mình đang theo. Thày đã mạnh liệt phản
đối khi người ta gọi “Gia Tô tả đạo”, đồng thời giải thích với mọi người về tôn
giáo của mình.
Thời gian phát lưu
không lâu thì vua Thiệu Trị băng hà (04-11-1847). Vua Tự Đức lên kế ngôi và ban
ân xá, giải phóng tù nhân. Trở về giáo phận trong niềm vui khôn xiết của nhiều
người, thày Tịnh vâng lời Đức Cha lãnh chức linh mục, khi đã 56 tuổi. Khoảng
một năm sau, vị tân linh mục được giữ chức giám đốc kiêm giáo sư chủng viện
Vĩnh Trị. Nhờ trước đây đã từng là ân nhân chữa bệnh đau mắt cho quan Tổng Đốc
Nam Định Nguyễn Đình Hưng, nên cha giám đốc đã xin được giấy phép cho
chủng viện hoạt động một cách bán công khai, dưới hình thức một trường dạy chữ
Nho và thuốc.
Chân dung cha Phaolô Tịnh
Thoạt nhìn người ta có
thể nhận thấy Phaolô Tịnh là một linh mục có thân hình dong dỏng cao gầy guộc,
dáng vẻ đạo mạo, khắc khổ. Nhưng chỉ những ai gặp gỡ cha mới nhận ra đó là một
vị linh mục đầy lòng nhân ái, giản dị, khôn ngoan, từng trải. Có lẽ những bước
thăng trầm đây đó cùng với số tuổi khá cao khi lãnh chức linh mục, đã ảnh hưởng
tới nhiều cuộc đời tông đồ của cha. Ngài tận dụng thời giờ thật khít khao, cốt
sao đạt được ích lợi tối đa. Trong những năm tháng đảm nhiệm chủng viện Vĩnh
Trị với bao công việc, thế mà giám đốc vẫn thu xếp được thời giờ để viết lách.
Ta có thể kể những tác phẩm của cha:
- Phúc âm dẫn giải
- Giáo lý đại cương
- Và Lục vấn lương tâm:
gồm những lời khuyên thực hành để giúp xa lánh tội trọng và dọn mình chết lành.
Trong khi hướng dẫn
chủng sinh, cha thường khuyên các thày phải giữ kỷ luật, vì chính cha đã có
kinh nghiệm sâu sắc: Kỷ luật là ân nhân giúp thể hiện lòng mến Chúa, nâng đỡ
đời tu. Đàng khác cha còn chú tâm huấn luyện chủng sinh về đời sống cầu nguyện.
Theo cha một nhà truyền giáo mà không quý trọng việc cầu nguyện thì lời giảng
sẽ không có sức thuyết phục. Lúc này, tuy không còn trực tiếp coi sóc các
giáo hữu, nhưng cha Tịnh rất siêng năng giải tội, giúp đỡ các tâm hồn hòa giải
với Chúa. Một khía cạnh khác trong đời cha Phaolô Tịnh là lòng yêu mến Thánh
Giá. Bất cứ nơi nào cha đã từng sống, đều có bóng dáng của cây Thập Giá. Sau
này, khi bị bắt các quan thấy cha có nhiều cây Thập Giá quá, liền kháo nhau:
“Ông cụ này nghiện Thánh Giá”.
Đúng vậy, không phải
cha “nghiện” Thánh Giá bằng cách dựng thánh giá khắp nơi, nhưng vì lòng tôn
kính cuộc tử nạn Chúa Kitô, đồng thời ao ước sống cuộc đời Thánh Giá, mong muốn
mình được góp phần vào dòng máu của Thày Chí Thánh đã đổ ra để cứu chuộc trần
gian. Lòng yêu mến ấy đã bộc lộ qua nếp sống thật nhiệm nhặt, cả khi còn làm
thày sống ẩn tu, cũng như khi làm cha giám đốc chủng viện. Bữa ăn thường nhật
của cha là vài chén cơm với chút nước mắm và đĩa rau xanh. Cha thường ngủ nghỉ
dưới đất, ít khi chịu nằm giường. Thân xác cha hao mòn, nhưng bên trong vẫn
chứa đựng một tâm hồn mãnh liệt, một trí thông minh sắc sảo.
Cha sống nhiệm ngặt đến
quên thân mình, nhưng lại lo lắng cho người khác. Cha thường thăm viếng, an ủi,
ban các bí tích, giúp đỡ người nghèo, nhất là các bệnh nhân, kể cả những người
bị bệnh nan y như phong cùi. Có thể nói cha Lê Bảo Tịnh đã tử đạo ngay trong
cuộc sống, trước khi được phúc thực sự đổ máu vì đức tin trung kiên.
Bị bắt lần thứ hai
Năm 1857, hai cha Kỳ và
Hảo về tổ chức lễ tại nhà thờ Phát Diệm. Dịp này, ngoài thánh lễ còn có những
cuộc rước long trọng. Biến cố rầm rộ này bị báo cáo xuyên tạc với viên quan Ninh
Bình rằng: “Cụ đạo khao quân”. Quan quân liền kéo về Phát Diệm vây bắt, nhưng
hai cha Kỳ và Hảo đã về Vĩnh Trị rồi, nên họ gửi giấy yêu cầu quan Nam Định đi
bắt hai linh mục đó. Quan Tổng đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng vẫn còn nhớ ân
tình với cha Lê Bảo Tịnh (vị ân nhân đã chữa mắt cho mình), nên đã cố gắng ngăn
cản nhưng không được. Kế hoạch vây bắt được ấn định vào ngày 27-02-1857 do quan
phủ Nghĩa Hưng chỉ huy.
Trong khi đó, quan tổng
đốc đã nhờ người báo tin cho cha Tịnh ở Vĩnh Trị, nhưng vì người đó bất ưng bị
bệnh nặng không đi báo được, bên chủng viện Vĩnh Trị vẫn sinh hoạt bình thường
khi quan quân vây kín làng. Sau mấy phút hội ý, Đức cha Liêu và các cha đồng ý
chạy trốn, chỉ để một mình cha Tịnh ở lại đối phó, với hy vọng tránh được những
tàn phá. Cha Tịnh bình tĩnh mời quan phủ Nghĩa Hưng và ông Phán Trứ vào phòng
uống nước, rồi trình bày giấy phép của quan Tổng Đốc. Tuy nhiên vì trong nhà có
nhiều đồ “quốc cấm” như sách La tinh, đồ lễ và nhiều vật dụng khác từ nước
ngoài gửi đến, nên quan phủ cho lập biên bản, và yêu cầu cha Tịnh ra tỉnh để
điều tra thêm.
Trước khi đi, cha Tịnh
vào nhà thờ cầu nguyện và giã từ các chủng sinh, những người con yêu quý nhất
của cha. Đức cha Liêu có tìm cách chuộc lại cha Tịnh trước khi bị giải lên
tỉnh, nhưng không thành công. Đức cha liền cho người báo trước với quan Tổng
Đốc để nhờ quan lo liệu. Hôm sau, ông Phán Trứ giải cha Tịnh ra tỉnh. Tờ giấy
phép mà quan Tổng Đốc cấp cho cha Tịnh đả đưa ông vào thế kẹt. Các quan khác
nghĩ ông đã nhận được một khoản tiền khá lớn.
Quan Tổng đốc lâm vào
tình thế khó xử. Ông biết rõ cuộc đời, thân thế của cha Tịnh, thế mà chính quan
Thượng Hưng lại là người hỏi cung cha. Trước tòa, quan không gạn hỏi gì cả, chỉ
xin cha quá khóa thì sẽ tha về. Nhưng cha Tịnh với tư cách một linh mục làm sao
có thể chấp nhận lời đề nghị ấy.
Năm ngày sau, cha Tịnh
lại được đưa ra trước công đường. Cũng một câu hỏi và cũng một lòng son sắt đó.
Khi được lệnh viết lại bản lý lịch, cha vẫn xác nhận mình là linh mục. Quan
Thượng Hưng khuyên cha không nên viết thế, chỉ nên khai là giáo hữu chuyên dạy
chữ nho và làm thuốc mới hy vọng thoát khỏi án chết. Đáp lại, cha cám ơn lòng
tốt của quan, vẫn giữ y lời khai vì cho đó là một vinh dự lớn lao. Cha sẵn sàng
chịu đựng tất cả là vì vinh dự ấy. Lần cuối cùng, quan Thượng Hưng tìm cách cứu
gỡ vị ân nhân của mình. Chính tay ông viết bản án và điền thêm ở dưới: “Xét
rằng Lê Bảo Tịnh đã ngoài 60 tuổi, chiếu theo luật nước, không nên xử tử những
người già nua tuổi tác như thế, xin cứ giam ở Nam Định và cứ giữ ở đó là tiện
nhất”.
Linh hồn tôi thuộc về Chúa.
Trong khi chờ đợi vua
trả lời về bản án, cha Tịnh bị giam ở Trại Vệ. Với cha, 37 ngày sống tại đây là
cơ hội để cha củng cố đức tin cho các anh em yếu đuối, tìm cách liệu cho họ
lãnh được lương thực tinh thần cũng như những trợ giúp về vật chất. Nhờ đó, họ
thêm can đảm làm chứng cho Chúa trong những giây phút bi thương nhất. Về phần
cha, đây là dịp chuẩn bị lần cuối để xứng đáng với diễm phúc tử đạo mà cha hằng
ao ước. Cha sửa soạn cho giờ phút đó một cách đều đặn bằng việc đọc kinh nguyện
ngắm. Chính khi củng cố lòng can đảm nơi người khác, cũng là lúc cha củng cố
lòng mình. Trong những ngày này, cha không thể nào quên được đoàn con thân yêu
ở chủng viện Vĩnh Trị. Trước khi bị xử án 12 ngày, cha viết cho các chủng sinh
một tâm thư rất cảm động và chan chứa những tư tưởng đạo đức.
Ngày 05.04.1857, án ra
tới tỉnh, người hồi hộp nhất là quan Tổng đốc. Vua cải án giam thành án tử hình
trảm quyết. Nhận được bản án, quan Thượng cố gắng một lần chót bằng cách khuyến
dụ cha Tịnh xuất giáo. Nhưng làm sao cha lại chấp nhận ? Cả một đời đã tận tụy
với Thiên Chúa, cả một đời khát khao mong chờ diễm phúc lớn lao này, đến nay
sắp được toại nguyện, lẽ nào lại bỏ đi ? Cha từ tốn đáp lại lời quan: “Tôi xin
chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở
trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ý, tôi rất vui lòng, không oán than gì. Nó
chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại trong vinh quang. Còn linh hồn tôi là của
Thiên Chúa, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển
lòng tin tưởng của tôi. Đạo Thiên Chúa là chính đạo, là đạo thật, tôi yêu mến
và giữ đạo ấy từ thuở bé, và dù tôi có chết cũng chẳng bỏ được”.
Lời khẳng khái ấy phát
sinh từ quyết định thật can đảmvà sáng suốt. Quyết định lựa chọn cái chết một
cách hiên ngang, vì tin chắc rằng mình sẽ được sống muôn đời (Ga 12, 25).
Vĩnh phúc ấy, cha
Phaolô Lê Bảo Tịnh đã đạt được ngày 06.04.1857 tại pháp trường Bảy Mẫu (Nam
Định) trong lời từ biệt gởi tới mọi người: “Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ
đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé”.
Đức Thánh Cha Piô X đã
suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh